Trân trọng giới thiệu bài viết của Ths Nguyễn Thị Lợi và Ths Phan Quốc Thái được công bố trên Tạp chí Kinh tế&dự báo (2020)

TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP)

VÀ CƠ HỘI CHO NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Nguyễn Thị Lợi - Phan Quốc Thái
TÓM TẮT

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Trans-Pacific Partnership) được ký kết mang một ý nghĩa rất lớn đối với phát triển kinh tế toàn cầu trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ đang có chiều hướng lan rộng. CPTPP được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu, giảm thâm hụt thương mại và mức độ phụ thuộc vào các thị trường truyền thống như ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc... Xuất khẩu sẽ tăng thêm, trong đó có nhiều thị trường mới như: Peru, Mexico và nhiều nước khác. Thậm chí những thị trường Việt Nam đã có FTA thì nhiều loại hình dịch vụ cũng được mở ra giúp tình hình xuất khẩu tốt hơn. Sau gần 1 năm tham gia CPTPP, ngành dịch vụ, viễn thông, bưu chính, thương mại điện tử, dệt may, da giày, chế biến thực phẩm, đồ uống, bánh kẹo và đặc biệt là các mặt hàng nông sản phẩm đã có được những kết quả xuất khẩu tích cực… dự báo sẽ tiếp tục có tăng trưởng đột biến trong thời gian tới.
Từ khóa : CPTPP ; FTA ; TPP ; sản xuất nông nghiệp.


Nội dung cơ bản của hiệp định CPTPP
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Trans-Pacific Partnership) là Hiệp định tiếp nối của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), sau khi Hoa Kỳ rút khỏi TPP. CPTPP bao gồm 11 thành viên là Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Úc, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam. CPTPP được coi là một hiệp định thương mại tự do (FTA) tiêu chuẩn cao, không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền thống như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại v.v. mà còn xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước v.v.
Ngoài ra, Hiệp định này đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa cũng như đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc và chặt chẽ. [1]
Tóm lược về quá trình đàm phán và ký kết CPTPP:
TPP bắt đầu được đàm phán từ tháng 3/2010, bao gồm 12 nước thành viên là Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Úc, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam.
TPP được chính thức ký ngày 4/2/2016 và được dự kiến sẽ có hiệu lực từ 2018.
Tháng 1/2017, Hoa Kỳ tuyên bố rút khỏi TPP, khiến TPP không thể đáp ứng điều kiện có hiệu lực như dự kiến ban đầu.
Tháng 5/2017, 11 nước thành viên còn lại của TPP quyết định sẽ tiếp tục TPP theo hình thức thích hợp, dù không có Hoa Kỳ.
Tháng 11/2017, các nước ra Tuyên bố chung thống nhất đổi tên TPP thành CPTPP đồng thời điều chỉnh một số nội dung của TPP trong CPTPP. CPTPP được chính thức ký kết vào tháng 3/2018 bởi 11 nước thành viên còn lại của TPP (không bao gồm Hoa Kỳ).
Thỏa thuận và cam kết cơ bản đối với một số sản phẩm nông nghiệp đáng lưu ý
Nhật Bản: Xóa bỏ thuế quan ngay đối với 78% KNXK, sau 5-6 năm xóa bỏ thuế quan cho các mặt hàng tiếp theo, đạt 88,5% KNXK. Sau 15 năm: hơn 97 % KNXK được xóa bỏ thuế quan. Nhật Bản không cam kết mở cửa thị trường gạo. Để tăng cường năng lực xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Nhật, Nhật Bản sẽ hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam nhằm tăng khả năng trúng thầu hạn ngạch WTO của Nhật (300.000 tấn/năm)
Như vậy, so với Hiệp định Đối tác Việt Nam – Nhật Bản: cải thiện 38,4% dòng nông sản
Mexico Chỉ đạt mức xóa bỏ thuế quan ngay đối 37,41% KNXK. Sau 3-5 năm: 81% dòng thuế về 0%, kim ngạch thấp. Sau 16 năm: 95,28% dòng thuế về 0%, đạt 99,87%. Trong đó, 62% kim ngạch thuộc lộ trình 10-16 năm. Cắt giảm thuế trong 5-10 năm: gần 1%, chiếm 0,13% KN. TRQ: áp dụng với 27 dòng (2,54% dòng), duy trì thuế suất đối với 13 dòng (1,22% dòng)
Canada Xóa bỏ thuế quan ngay đối với xấp xỉ 100% kim ngạch xuất khẩu Sau 5-10 năm: 98,9% dòng, 100% KNXK được xóa bỏ thuế quan
Loại trừ, không cam kết: 1.1% dòng, cơ bản là sản phẩm pho mát, VN không XK
Xem xét đối với mặt hàng cụ thể:
Gạo: 7 nước xóa bỏ thuế quan ngay, Chile, Mexico: Xóa bỏ thuế có lộ trình 8-10 năm, Nhật Bản không cam kết đối với mặt hàng này.
Cà phê: 8 nước xóa bỏ thuế quan ngay đối với cà phê nguyên liệu HS 09 và cà phê hòa tan HS 21: AU, NZ, CA, SG, BN, CL, PE, JP, Mexico cắt giảm 50-70% thuế suất, có lộ trình 5-10 năm.
Hạt tiêu: 8 nước xóa bỏ thuế quan ngay: AU, NZ, CA, SG, BN, CL, PE, JP, Mexico xóa bỏ thuế có lộ trình 16 năm đối với hạt tiêu xanh
Hạt điều: Các nước xóa bỏ thuế quan ngay
Chè: Các nước xóa bỏ thuế quan ngay, Nhật Bản: xóa bỏ lộ trình 5 năm
Rau quả: Xóa bỏ thuế quan ngay đối với rau quả nhiệt đới tươi Việt Nam có lợi thế xuất khẩu. Các sản phẩm chế biến, đóng hộp xóa bỏ với lộ trình 3-5 năm. Đối với dứa ngâm đường, Nhật Bản xóa bỏ thuế lộ trình 10 năm.
Cơ hội cho phát triển nông nghiệp Việt Nam
Xem xét nội dung cơ bản của CPTTP và ảnh hưởng của nó trong thời gian vừa qua chúng ta có thể thấy được nông nghiệp Việt Nam đang có được những cơ hội sau:
Thứ nhất, là về thị trường xuất khẩu: một thị trường xuất khẩu rất lớn đang sắp được mở ra hứa hẹn sẽ giúp cho chúng ta thoát được thực trạng quá phụ thuộc vào một thị trường nhất định.
Việc các nước, trong đó có các thị trường lớn như Ca-na-đa, Ốt-xtrây-li-a và Nhật Bản giảm thuế nhập khẩu về 0% cho hàng nông sản của ta sẽ tạo ra những tác động tích cực trong việc thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu. Theo đó, doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu nông sản sang thị trường các nước thành viên Hiệp định CPTPP sẽ được hưởng cam kết cắt giảm thuế quan rất ưu đãi, giúp mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng cường tiếp cận các thị trường lớn nhất thế giới với ưu thế đáng kể.
Thứ hai, Hiệp định đã đang và sẽ thúc đẩy làm tăng tính kết nối giữa các doanh nghiệp thông qua việc tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu
Các nước CPTPP chiếm 13,5% GDP toàn cầu với tổng kim ngạch thương mại hơn 10.000 tỷ USD, lại bao gồm các thị trường lớn như Nhật Bản, Ca-na-đa, Ốt-xtrây-lia sẽ mở ra nhiều cơ hội khi chuỗi cung ứng mới hình thành. Tham gia CPTPP đang tác động làm cho xu hướng này phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn, điều này giúp nâng tầm trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp Việt Nam nói riêng, tăng năng suất lao động, tham gia vào các công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, từ đó tạo động lực và sức ép cho doanh nghiệp trong nước đầu tư sản xuất trong nước theo hướng giảm xuất khẩu nguyên liệu và sơ chế, đầu tư phát triển chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng, tăng cường xuất khẩu sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao... Đây là cơ hội rất lớn để nâng tầm nền nông nghiệp Việt Nam trong 5 - 10 năm tới.
Thứ ba, là việc thu hút đầu tư lớn từ các nước vào lĩnh vực nông nghiệp. Hiện, vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp rất khiêm tốn, chiếm 1,4% tổng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều lợi thế để phát triển nông nghiệp. Ngành Nông nghiệp Việt Nam kể từ sau đổi mới đã phát triển mạnh mẽ, với giá trị sản xuất đóng góp khoảng 25% - 30% GDP/năm. Việc tham gia CPTPP đang mở đường cho nông nghiệp Viêt Nam tiếp cận, thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Điều này mang lại kì vọng sẽ thúc đẩy nhanh hơn công cuộc hiện đại hóa nền nông nghiệp nước ta.
Thứ tư, là sự thúc đẩy tái cấu trúc nền nông nghiệp. Sức ép cạnh tranh CPTPP mang lại sẽ buộc các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong ngành nông nghiệp phải đẩy mạnh đầu tư công nghệ mới, quản lý mới vào nông nghiệp, năng năng suất và sức cạnh tranh của chính mình. Doanh nghiệp Việt Nam cần tuân thủ nghiêm các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường trong khối nhằm đẩy mạnh việc xuất khẩu sang các nước thành viên CPTPP và tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm. Hàng hóa nông sản của Việt Nam còn phải đối diện với sức ép cạnh tranh tại “sân nhà” đến từ việc hàng hóa các nước CPTPP tràn vào thị trường trong nước. Sức ép từ hai phía sẽ tạo động lực cho doanh nghiệp Việt Nam cải cách mô hình kinh doanh, đầu tư hơn vào dây chuyền sản xuất và nguồn lực lao động.
Bên cạnh sức ép trực tiếp đến từ cạnh tranh, nền nông nghiệp Việt Nam sẽ hấp thụ được khoa học kỹ thuật mới thông qua hoạt động đầu tư xuyên quốc gia đi kèm với khoa học công nghệ và nâng cao trình độ kỹ năng lao động, từ đó thay đổi được cách làm truyền thống, nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng của sản phẩm.[2]
Thách thức đặt ra đối với nông nghiệp Việt Nam dưới tác động của CPTPP
Từ quá trình tìm hiểu nội dung của Hiệp định CPTPP cũng như diễn biến trong quan hệ của Việt Nam với các nước tham gia kể từ khi CPTPP có hiệu lực đến nay có thể thấy, bên cạnh những cơ hội mà chúng ta đang có thì các mặt hàng nông sản Việt Nam cũng đang gặp phải những khó khăn, thách thức sau:
Thứ nhất, sản xuất của chúng ta vẫn mang hơi hướng sản xuất hộ cá thể, nhỏ lẻ. Doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 1,01%, và hầu hết là doanh nghiệp nhỏ. Sản xuất quy mô hộ gia đình, công nghệ còn kém nên có những mặt hàng rất khó khăn khi mở cửa. Thực tế này có thể làm cho sản phẩm nông nghiệp Việt Nam có thể thất bại ngay trên thị trường nội địa vì trong các thành viên tham CPTPP có những nước rất mạnh ở một số mặt hàng nông phẩm nếu chúng ta không tạo sự gắn kết để có các chuỗi cung ứng sản phẩm.
Ngoài ra thưc trạng các doanh nghiệp Việt Nam chưa chủ động tìm hiểu thông tin, do đó thông tin về các thị trường tiềm năng còn mù mờ đang là yếu tố cản trở khi hội nhập. Do hoạt động sơ chế, chế biến, kênh tiêu thụ sản phẩm, tiêu dùng nông sản Việt Nam vẫn chủ yếu theo phương thức truyền thống nên chủng loại sản phẩm chưa đa dạng, thiếu nhãn mác để nhận diện sản phẩm. Các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam có sức cạnh tranh kém, chưa có thương hiệu trên thị trường quốc tế, chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô nên giá trị gia tăng không nhiều và thường có giá trị xuất khẩu không cao.Bên cạnh đó, chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp và an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát triệt để, giá cả bấp bênh, sản xuất kém hiệu quả, thiếu ổn định bền vững.
Thứ hai, để được hưởng mức thuế suất ưu đãi, doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu về tỷ lệ giá trị nội địa, yêu cầu này đang ngày càng được các nước kiểm tra chặt chẽ. Do vậy, nếu không tính toán cẩn thận, không có chính sách điều chỉnh phù hợp có thể chúng ta sẽ gặp khó khăn trong quá trình hàng hóa xuất khẩu sang các nước trong thời gian tới.
Một thực tế đã và đang tồn tại ở nước ta trong một thời gian dài đó là nông sản Việt Nam không mùa nào là không có mặt hàng cần giải cứu. Một trong những nguyên do chính là sự thiếu chủ động tìm hiểu thông tin của doanh nghiệp và nông dân. Đặc biệt, thông tin về yêu cầu kỹ thuật cũng là tính pháp lý của các lô hàng xuất khẩu luôn là yếu tố cản trở khi hội nhập.
Thứ ba, các mặt hàng của một số nước thành viên CPTPP có nhiều nét tương đồng với những mặt hàng vốn được coi là lợi thế xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam, do đó, các nước này sẽ tìm cách bảo hộ sản phẩm trong nước bằng cách tạo ra các rào cản kỹ thuật, gây khó khăn cho hàng hóa của Việt Nam. Đồng thời, chính hàng hóa nước họ cũng cạnh tranh trực tiếp với hàng hóa Việt Nam khi cùng xuất khẩu tới một nước thành viên khác của CPTPP…
Thứ tư, tham gia kí kết hiệp định nghĩa là chúng ta đã tham gia vào sân chơi chung, mọi lĩnh vực kinh tế đều được điều chỉnh theo luật chung, điều này sẽ phá vỡ tư duy từ trước đến nay của nông nghiệp Việt Nam đó là kiểu tư duy “cần thì thay đổi, thích thì điều chỉnh”. Do vậy chúng ta cần khẩn trương hơn nữa trong việc sửa đổi các quy định của luật để phù hợp với nội dung của Hiệp định. [2]
Một số kiến nghị
Về phía doanh nghiệp:
Thứ nhất, phải luôn nắm vững cam kết của Việt Nam và các thị trường đối tác, đặc biệt là các thông tin về ưu đãi thuế quan theo Hiệp định đối với những mặt hàng nước ta đang có thế mạnh, có tiềm năng xuất khẩu.
Thứ hai, thay đổi tư duy kinh doanh, coi sức ép cạnh tranh là động lực để đổi mới và phát triển. CPTPP chắc chắn sẽ tếp tục mang lại cơ hội cho những doanh nghiệp chủ động xây dựng và điều chỉnh chiến lược kinh doanh trung và dài hạn, chú trọng đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, nâng trình độ nhân lực, quản trị doanh nghiệp, tận dụng tối đa hỗ trợ của Nhà nước.
Về phía các cơ quan nhà nước:
Thứ nhất, tiến hành và hướng dẫn, định hướng doanh nghiệp thực hiện xúc tiến thương mại và đầu tư, lựa chọn thị trường và đối tác để bổ sung nguồn vốn và tiếp cận công nghệ hiện đại.
Thứ hai, đối với Hội nông dân các tỉnh cần tiếp tục tổ chức các hội thảo để cung cấp thêm các thông tin cập nhật liên quan đến CPTPP, phân tích thực trạng, những khó khăn vướng mắc của người nông dân, về vốn, kỹ thuật hay đầu ra của sản phẩm. [3]
KẾT LUẬN
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) hứa hẹn sẽ tiếp tục mang lại nhiều cơ hội cho sự phát triển ngành nông nghiệp của Việt Nam, tuy nhiên các thách thức bên cạnh đó cũng không ít. Việt nam cần phải chủ động xây dựng, điều chỉnh về chính sách, đồng thời thực hiện các tốt việc tuyên truyền, định hướng cho doanh nghiệp để từ đó nắm bắt những cơ hội to lớn ở phía trước. Muốn làm được điều đó đòi hỏi cần một sự nổ lực rất lớn từ các cấp quản lý Nhà nước, sự linh hoạt và sáng suốt từ các doanh nghiệp trong ngành.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tr.Trang, CPTPP – Những nội dung của một Hiệp định tiêu chuẩn cao?, Tạp chí điện tử tài chính ngày 9/5/2018.
[2] Gia Nguyễn, TPP - Cơ hội và thách thức với nông nghiệp Việt Nam, Báo Nhân Dân, 2017.
[3] ThS. Phạm Thị Thùy Linh - Hiệp định CPTPP - Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam, tapchicongthuong.vn ngày 16/03/2020